Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới Wef World Economic Forum

Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới Wef World Economic Forum

Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam là hoạt động thường niên của Quốc hội Việt Nam do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội phối hợp cùng Ban Kinh tế Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức.

Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam là hoạt động thường niên của Quốc hội Việt Nam do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội phối hợp cùng Ban Kinh tế Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức.

Vấn đề xuất khẩu lao động tại Việt Nam

Trong thời đại toàn cầu hoá, lao động di chuyển từ nước này sang nước khác đã trở thành hiện tượng khá phổ biến. Tuy không nhộn nhịp như tư bản và công nghệ, lao động cũng là một yếu tố sản xuất ngày càng vượt biên giới tìm nơi có mức thù lao cao hơn. Tuy nhiên, khác với sự di chuyển của lao động trí thức đã có từ trước, xuất và nhập khẩu lao động giản đơn (unskilled labor, less-skilled labor) hay lao động chân tay (blue-collar workers) là hiện tượng tương đối mới. Vấn đề nầy cũng phức tạp, không thể chỉ xét ở khía cạnh thuần kinh tế. Bài nầy bàn về trường hợp lao động giản đơn nầy. Câu hỏi đặt ra ở đây là Việt Nam cần suy nghĩ như thế nào về vấn đề xuất khẩu lao động ?

Thấy gì từ những nước xuất và nhập khẩu lao động ?

Những nước cần nhập khẩu lao động có hai loại : một là những nước dân số ít mà giàu tài nguyên như ở Trung Đông, ở đây thiếu lao động trong các ngành xây dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ tại tư gia; hai là những nước đã phát triển, kể cả những nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia. Trong nhóm thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh sang những ngành dùng nhiều tư bản, công nghệ và lao động trí thức, và chuyển sang nước ngoài (đầu tư trực tiếp, FDI) những ngành có hàm lượng lao động giản đơn cao. Tuy nhiên, tại những nước công nghiệp mới, những ngành dùng nhiều lao động giản đơn có quy mô khá lớn nên không thể chuyển hết ra nước ngoài. Thêm vào đó, trong những ngành đang phát triển mạnh tại những nước nầy, nhiều công đoạn còn dùng lao động giản đơn nên nhu cầu nhập khẩu lao động tăng. Tại những nước phát triển (Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật), nhu cầu lao động tăng trong ngành xây dựng, ngành dịch vụ ẩm thực, dịch vụ săn sóc người cao tuổi, một số nước cần lao động trong nông nghiệp.

Ở đây cần lưu ý một điểm là tại các nước đã phát triển không phải là không còn tồn tại lao động giản đơn. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ số người mới ở trình độ giáo dục cưỡng bách. Tuy nhiên vì tiền lương nói chung đã tăng cao theo mức sống của xã hội, các xí nghiệp có khuynh hướng thuê mướn lao động nước ngoài để giảm chi phí. Mặt khác, lao động bản xứ có khuynh hướng tránh những loại công việc mà môi trường lao động không tốt, dễ gặp tai nạn, như ở các công trình xây dựng. Tại Nhật 3 loại công việc, mà tiếng Nhật gọi là 3K, phải nhập khẩu lao động nước ngoài vì không thuê mướn được lao động bản xứ : nguy hiểm (kiken), môi trường làm việc không sạch sẽ (kitanai) và điều kiện lao động khắc nghiệt (kitsui) như nóng nảy, ngột ngạt.

Về phía các nước xuất khẩu lao động, nói chung đây là những nước kém phát triển, hoặc phát triển với tốc độ chậm mà lại không ưu tiên đẩy mạnh các ngành dùng nhiều lao động. Cho đến nay, những nước xuất khẩu lao động vừa nhiều về số lượng vừa có tỉ lệ cao trong tổng dân số của nước đó là Lebanon, El Salvador, Columbia, Pakistan và Phi-li-pin. Riêng Phi-li-pin, hiện nay có khoảng 8 triệu người làm việc ở nước ngoài, bằng khoảng 10 % dân số nước nầy. Hằng năm ngoại hối do lao động xuất khẩu gửi về qua đường chính thức khoảng 10 tỉ USD, xấp xỉ 10 % GDP.

Nhìn chung có thể thấy một số đặc điểm cơ bản liên quan đến lao động xuất khẩu và liên quan đến những nước xuất khẩu nhiều lao động :

Thứ nhất, lao động giản đơn xuất khẩu sang các nước phát triển nhất là các nước công nghiệp mới thông thường làm việc trong những môi trường khó khăn, quyền lợi của người lao động dễ bị xâm phạm nếu việc xuất nhập khẩu lao động không được tổ chức chu đáo, không có sự cam kết của xí nghiệp dùng lao động và sự giám sát của các cơ quan của nước sở tại.

Thứ hai, vì là lao động giản đơn, trình độ học vấn, trình độ văn hoá của người đi lao động nước ngoài thấp nên khó thích nghi với điều kiện văn hoá, xã hội nước ngoài. Không ít người thất vọng với hoàn cảnh sống và làm việc ở xứ người, và có nhiều trường hợp phạm pháp xảy ra, gây ra hình ảnh xấu cho nước xuất khẩu lao động. Ngoài ra, cùng với điểm thứ nhất, lao động có trình độ văn hoá thấp thường dễ bị bóc lột tại xứ người.

Thứ ba, nước xuất khẩu lao động hầu hết là những nước không thành công trong các chiến lược phát triển kinh tế. Với trình độ văn hoá thấp, người dân các nước nầy không khỏi không lo âu khi rời xứ sở ra nước ngoài làm việc. Tại Á châu, ngay cả việc rời nông thôn để ra thành thị đối với họ cũng không phải là sự chọn lựa dễ dàng. Thành ra, nếu trong nước có công ăn việc làm, ít người muốn tham gia xuất khẩu lao động.

Thứ tư, cho đến nay, trong những nước xuất khẩu lao động chưa thấy nước nào đưa vấn đề nầy vào trong chiến lược phát triển kinh tế chung, trong đó lao động được đưa đi sẽ bảo đảm rèn luyện được tay nghề khi trở về, ngoại hối thu được sẽ được dùng một cách hiệu quả trong việc du nhập công nghệ, tư bản, v.v... và có kế hoạch chấm dứt xuất khẩu lao động trong tương lai. Chỉ thấy có truờng hợp (như Malaysia đã làm 20 năm trước) tích cực đưa thực tập sinh sang tu nghiệp ngắn hạn tại các nước tiên tiến để sau đó về làm việc với năng suât cao hơn tại các nhà máy hoặc các cơ sở kinh tế khác, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển chung. Nhưng thực tập sinh khác về chất với vấn đề xuất khẩu lao động.

Trong cuộc họp báo ngày 16.6.2006 về tình hình xuất khẩu lao động (XKLĐ) 6 tháng đầu năm nay, ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, phó cục trưởng cục Quản lý lao động ngoài nước, cho biết trong thời gian tới Đài Loan sẽ xem xét việc tiếp nhận trở lại lao động giúp việc gia đình và chăm sóc người bệnh tại nhà của VN. Trước đó, từ ngày 20.1.2005, Đài Loan dừng tiếp nhận lao động VN ở hai lĩnh vực nói trên do tỉ lệ lao động bỏ trốn quá cao (chiếm khoảng 9 %). Ông Quỳnh phấn khởi cho biết VN có thể được cho phép nối lại cung ứng lao động với Đài Loan là nhờ « cải thiện và hạn chế đáng kể được tình trạng lao động bỏ trốn », nhưng không nói rõ những lý do khiến người lao động bỏ trốn « nhiệm sở » của mình. Trong buổi thảo luận về dự luật XKLĐ ngày 5.6 vừa qua, một nữ đại biểu quốc hội đã đề nghị bỏ việc tuyển chọn lao động giúp việc gia đình đi làm việc ở nước ngoài vì dễ bị lạm dụng tình dục : « Sau khi đi tiếp xúc cử tri chúng tôi nghe phản ảnh rất nhiều về vấn đề này. Nơi đất khách quê người, ngôn ngữ bất đồng, nếu bị lạm dụng thì chị em cũng không biết kêu vào đâu ».

Có không ít khả năng là cái cục Quản lý của ông Quỳnh còn nhiều việc làm khác hấp dẫn hơn việc ra sức bảo vệ người lao động nơi đất khách quê người.

Sự nở rộ của những « cò XKLĐ » chẳng hạn. Theo VnEconomy 4.4.2006, mỗi lao động sang Hàn Quốc phải nộp trước cho « cò » từ 4 tới 8 ngàn USD trong khi chi phí đi lao động ở nước này, theo qui định của nhà nước, chỉ là 699 USD. Hầu hết các doanh nghiệp làm XKLĐ là quốc doanh, tại sao người đi lao động lại phải qua trung gian của cò mồi ? Những ai được « ăn » trong các dịch vụ trung gian đó ? Tại sao báo chí nói rất nhiều tới những vụ lừa đảo trong khu vực này mà cục Quản lý vẫn bình chân như vại ? v.v.

Câu hỏi còn nhiều, và nếu có một cuộc tổng thanh tra khu vực, chắc hẳn người ta sẽ thấy « ở trong còn lắm điều hay », nhưng có thể « cá độ » là tựu trung vẫn xoay quanh câu chuyện cái cơ chế xin–cho và những người nắm đầu mối của cơ chế đó…

Không kể thời kỳ quan hệ kinh tế mật thiết với các nước Đông Âu, xuất khẩu lao động của VN tăng nhanh từ cuối thập niên 1990 và chủ yếu sang các nước Đông Á, nhất là Ma-lai-xia, Đài Loan và Hàn Quốc. Gần đây, thị trường xuất khẩu lao động mở rộng sang Trung Đông, Tây Âu và Mỹ. Từ năm 2001, bình quân mỗi năm có 70.000 lao động được đưa đi ra nước ngoài. Hiện nay có hơn 400.000 lao động VN làm việc tại 40 nước và lãnh thổ, trong đó riêng tại Malaysia có hơn 100.000 người, chíếm độ 10 % tổng số lao động nhập khẩu của nước nầy.

Báo chí trong nước đã nói nhiều về tình trạng khó khăn, nhiều trường hợp rất bi thảm, của người lao động đang làm việc ở nước ngoài. Từ những phân tích ở trên ta cũng hiểu được điều nầy. Cùng với hiện tượng ngày càng nhiều phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài chỉ vì mục đích giải quyết khó khăn về kinh tế, việc xuất khẩu lao động trở thành vấn đề bức xúc của xã hội ta, xúc phạm lòng tự trọng của người Việt Nam. Đặc biệt xuất khẩu lao động làm cho hình ảnh của VN trên thế giới không mấy sáng sủa. Tổn thất nầy có bù đắp được bằng mấy tỉ đô la ngoại hối do xuất khẩu lao động mang lại hàng năm ?

Trong nước đương bàn về dự thảo Luật đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, dự kiến Quốc hội sẽ thông qua luật nầy vào cuối năm 2006. Việc tổ chức hy vọng sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, trên căn bản, tôi nghĩ vấn đề xuất khẩu lao động của Việt Nam cần được giải quyết theo hướng sau :

Thứ nhất, cần đưa vấn đề nầy vào trong một tổng thể của chiến lược phát triển kinh tế, trong đó điểm mấu chốt là giải quyết công ăn việc làm cho mọi người có khả năng lao động. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng, việc thu hút FDI, việc dùng ngân sách để yểm trợ các dự án phát triển công nghiệp phải hướng vào điểm mấu chốt đó. Việc hoạch định chính sách theo hướng đó và công bố rộng rãi chính sách nầy sẽ làm người dân tin tưởng vào tương lai đất nước, thấy an tâm là mình sẽ không bị bỏ rơi trong quá trình phát triển và như vậy giảm được áp lực tham gia xuất khẩu lao động..

Thứ hai, đặt kế hoạch đưa lao động đi thực tập và làm việc tại các nước phát triển theo một chương trình chuẩn bị chu đáo để bảo đảm người lao động có thể học tập qua công việc và quyền lợi lao động được bảo vệ. Những lao động được chọn đi không nên là lao động quá giản đơn (unskilled) mà là lao động có một trình độ học vấn nhất định (semi-skilled) để dễ thích nghi với điều kiện văn hoá, xã hội ở nước ngoài và nhất là để có thể lãnh hội tri thức mới qua công việc.

Thứ ba, có lẽ trong vài năm trước mắt chưa thể chấm dứt ngay vấn đề xuất khẩu lao động, do đó cần tổ chức tốt để hoạt động nầy có hiệu quả hơn, tránh tình trạng lao động bị bóc lột như trong thời gian qua. Nói cụ thể hơn, cần thu thập, phân tích thông tin liên quan đến thị trường lao động, tổ chức theo dõi, quản lý tại các nước và phổ biến rộng rãi trong nước để người dân có đủ cơ sở chọn lựa tham gia xuất khẩu lao động hay không.

Để kết thúc, tôi muốn nhấn mạnh lại điểm nầy : Một nước xuất khẩu nhiều lao động giản đơn hầu hết, nếu không nói là tất cả, là những nước nghèo, và do đó hình ảnh của những nước nầy không mấy sáng sủa trên vũ đài thế giới. Có kế hoạch chấm dứt tình trạng nầy trong một thời gian càng ngắn càng tốt là trách nhiệm của những người lãnh đạo đất nước.

Chú : Tư liệu về xuất khẩu lao động của VN tham khảo từ Website của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (http://www.molisa.gov.vn) và Thời báo kinh tế Việt Nam 2/6/2005 và 6/2/2006. Tư liệu về xuất nhập khẩu lao động trên thế giới tham khảo từ nhiều nguồn tiếng Nhật và tiếng Anh, đặc biệt bài viết của Prema-chandra Athukorala, International Labour Mỉgation in East Asia : trends, pattern and policy issues, Asian-Pacific Economic Literature, Vol 20 No.1 (May 2006).

Đây là danh vị cấp cao của WEF dành cho 1.000 doanh nghiệp xuất sắc trên toàn cầu, có vai trò kích thích sự phát triển nền kinh tế trong nước, đồng thời có khả năng phát triển mạnh ra quốc tế.

Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec

Gia nhập WEF ngày 1/7/2011, chỉ sau một năm, tập đoàn Vingroup đã được WEF đánh giá cao về sự phát triển vượt bậc cũng như tầm ảnh hưởng và vị thế trong khu vực. Theo đó, WEF ghi nhận Vingroup là doanh nghiệp đầu ngành trong lĩnh vực bất động sản Việt Nam; có tiềm lực tài chính vững mạnh, độc lập và có khả năng phát triển mạnh mẽ, không chỉ trong nước mà cả trên thị trường quốc tế.

Ở góc độ danh tiếng, WEF cho rằng, Vingroup có uy tín rất cao đối với các đối tác, khách hàng trong và ngoài nước. Với sự năng động và tinh thần tiên phong, đội ngũ cán bộ lãnh đạo tài năng của Vingroup cũng được WEF đánh giá là “những Đại sứ tuyệt vời cho nền kinh tế Việt Nam”.

Trung tâm thương mại Vincom Center A TPHCM

Từ những ghi nhận trên, WEF đã chủ động đề nghị Vingroup trở thành Thành viên sáng lập (Foundation Membership) của tổ chức từ ngày 1.1.2013. Đây là danh vị mà WEF chỉ dành cho khoảng 1.000 doanh nghiệp xuất sắc, dẫn đầu trong những lĩnh vực hoạt động quan trọng tại các quốc gia và có tầm ảnh hưởng quốc tế.

Trung tâm thương mại Vincom Center B TPHCM

Ở vị thế mới này, Vingroup có cơ hội tham gia thảo luận những vấn đề kinh tế toàn cầu với tiếng nói có trọng lượng hơn. Vingroup cũng sẽ có quyền tham dự Hội nghị Davos thường niên, nơi quy tụ các nguyên thủ, các nhà khoa học, học giả, các chuyên gia, các tổ chức quốc tế và lãnh đạo các tập đoàn lớn nhất thế giới.

Sân trượt băng trong nhà lớn nhất Việt Nam - Vincom Mega Mall - Royal City.

Đặc biệt, tham gia Hội nghị Davos với tư cách Thành viên sáng lập sẽ đưa Vingroup gia nhập mạng lưới các doanh nghiệp danh giá, đẳng cấp toàn cầu; mở ra cơ hội hợp tác kinh doanh, đầu tư và tìm kiếm ý tưởng mới với những đối tác tiềm năng. Thực tế, theo ghi nhận từ các thành viên sáng lập của WEF, khoảng 25-30% doanh thu mỗi năm của các doanh nghiệp này đến từ những thỏa thuận hợp tác được ký kết tại Hội nghị Davos.

Vinpearl Golf Club - Sân golf đẳng cấp đầu tiên trên đảo tại Việt Nam tại Vinpearl Nha Trang.

“Chúng tôi đã sẵn sàng để chia sẻ và đón nhận những cơ hội mới từ WEF một cách chủ động hơn, mạnh mẽ hơn, khai thác tối đa lợi ích khi là thành viên của một mạng lưới doanh nghiệp lớn nhất thế giới. Sự kiện này cùng với những danh hiệu, giải thưởng liên tiếp được các tổ chức quốc tế và khu vực trao tặng gần đây cho Vingroup cũng đã khẳng định bước tiến mới của chúng tôi trong chiến lược quốc tế hóa; góp phần đưa hình ảnh Việt Nam ra thế giới một cách tích cực, sinh động và năng động hơn” - Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Vingroup, bà Lê Thị Thu Thủy chia sẻ.

Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) được thành lập năm 1970, là một tổ chức quốc tế độc lập, cam kết cải thiện thế giới thông qua việc khuyến khích các nhà doanh nghiệp, chính trị, học giả và các nhà lãnh đạo khác trong xã hội định hình các chương trình nghị sự trên phạm vi toàn cầu, khu vực và trong nhiều lĩnh vực. Với sự tham gia của khoảng 2.500 đại biểu là các nguyên thủ, chính trị gia, nhà khoa học, chuyên gia và các doanh nhân hàng đầu thế giới đến từ 90 quốc gia, WEF là diễn đàn kinh tế lớn nhất thế giới cả về quy mô và tầm ảnh hưởng. Dự kiến năm nay, Hội nghị quan trọng nhất của WEF sẽ diễn ra từ 23 – 27/1/2013 tại Davos, Thụy Sỹ.

Diễn đàn kinh tế Việt Nam - Nhật Bản 2023: Đẩy mạnh hợp tác, tìm kiếm cơ hội đầu tư

Diễn đàn được tổ chức nhân kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam-Nhật Bản, là cơ hội tốt để doanh nghiệp hai nước được gặp gỡ, giao lưu, tìm kiếm đối tác hợp tác trong tương lai.

Với chủ đề “Cùng kiến tạo đổi mới nhằm xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững”, Diễn đàn Kinh tế Việt Nam - Việt Nam 2023 chính thức diễn ra trong ngày 15/2/2023.

Diễn đàn được tổ chức nhân chuyến công tác Việt Nam của ông Yoshihisa Suzuki, Chủ tịch, Ủy ban Hợp tác Kinh doanh Nhật Bản -Mekong, Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (JCCI) cùng đoàn doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, công nghệ thông tin, chế tạo…

Chia sẻ tại diễn đàn, Phó thủ tướng Trần Lưu Quang đánh giá Nhật Bản luôn là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam, là nhà cung cấp vốn ODA lớn nhất, đối tác hợp tác lao động lớn thứ hai, nhà đầu tư và đối tác du lịch lớn thứ ba, đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam.

Hai bên cũng hợp tác chặt chẽ trong nhiều lĩnh vực then chốt như cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, cải cách thế chế kinh tế, khoa học kỹ thuật, giáo dục…

Riêng trong lĩnh vực hợp tác đầu tư, dòng vốn FDI Nhật Bản đã hiện diện tại 57/63 tỉnh thành Việt Nam. Lũy kế đến tháng 12/2022, Nhật Bản có 4.978 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 68,89 tỷ USD, đứng thứ 3 trong 141 quốc gia/vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.

“Diễn đàn lần này là cơ hội để doanh nghiệp 2 nước trao đổi thắng thắn về thuận lợi, khó khăn trong kinh doanh thời gian qua, chủ động đề xuất ý tưởng, cơ hội hợp tác mới trong giai đoạn phục hồi của 2 nền kinh tế Việt Nam, Nhật Bản sau đại dịch”, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đánh giá.

Ông đề xuất Việt Nam - Nhật Bản tiếp tục đẩy mạnh hợp tác đầu tư, nhất là trong các ngành công nghiệp mũi nhọn, đồng thời mong Nhật Bản chú trọng chuyển giao công nghệ cho Việt Nam, thúc đẩy chuyển đổi xanh. Chính phủ Việt Nam cam kết sẽ luôn đồng hành và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhật Bản yên tâm đầu tư ổn định, lâu dài tại Việt Nam.

Về phần mình, ông Yoshihisa Suzuki, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (JCCI) cho biết Diễn đàn lần này không chỉ là dự án đánh dấu 50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản mà còn là cơ hội để xây dựng tầm nhìn đồng sáng tạo.

Đại diện JCCI đánh giá với tư cách một quốc gia tiêu dùng có dân số lên tới 100 triệu người, phần lớn là người trẻ, Việt Nam trở thành thị trường hấp dẫn với các doanh nghiệp Nhật Bản. Do sự quan tâm của người Việt tới Nhật Bản ngày càng tăng, hiện tại cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản đã lên tới nửa triệu người, chiếm 16% tổng số người nước ngoài tại Nhật Bản, chỉ đứng sau Trung Quốc.

Từ phía đơn vị chủ trì diễn đàn, ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhấn mạnh diễn đàn là sự kiện mở đầu của chuỗi các hoạt động hợp tác doanh nghiệp 2 nước do VCCI phối hợp cùng các đối tác Nhật Bản sẽ tổ chức trong năm nay.

Ông Công cho biết tại Diễn đàn, đại diện các cơ quan Trung ương và địa phương, các chuyên gia kinh tế và các doanh nghiệp sẽ có cơ hội thảo luận, chia sẻ những mô hình mới, sáng kiến mới trong hợp tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản; với các phiên thảo luận cụ thể tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, tăng trưởng xanh giảm rác thải carbon và phát triển khởi nghiệp.

“Tôi tin tưởng rằng với các thành tựu to lớn đã đạt được trong 50 năm quan hệ Việt Nam - Nhật bản, với mong muốn của cộng đồng doanh nghiệp, của nhân dân và quyết tâm của Chính phủ hai nước, quan hệ hợp tác kinh tế thương mại và đầu tư giữa hai nước sẽ ngày càng phát triển, và Diễn đàn hôm nay sẽ đóng góp một phần vào sự phát triển đó”, đại diện VCCI khẳng định.

Chương trình Aus4Reform do Chính phủ Úc tài trợ, hỗ trợ Việt Nam thực hiện mục tiêu cải thiện môi trường kinh doanh, xây dựng và thực hiện hiệu quả các chính sách kinh tế, pháp luật, xây dựng các thể chế quan trọng giúp Việt Nam phát huy được các tiềm năng của mình.

Viện Konrad-Adenauer-Stiftung KAS là một viện của Đức với văn phòng đại diện ở hơn 120 quốc gia với các dự án hỗ trợ xây dựng phát triển kinh tế - xã hội. Tại Việt Nam, Viện KAS hiện là đối tác hỗ trợ kỹ thuật của một số bộ ngành cơ quan như Văn phòng Quốc hội, Bộ Tư pháp.

Chương trình Năng lượng phát thải thấp Việt Nam (VLEEP) của Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) được thiết kế nhằm hỗ trợ Việt Nam thiết lập môi trường chính sách, quy định và khuyến khích có hiệu quả cho phát triển năng lượng phát thải thấp, đồng thời thu hút đầu tư của cả khu vực tư nhân và nhà nước vào phát triển năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng hiệu quả.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) với mục tiêu thúc đẩy hợp tác tiền tệ toàn cầu, bảo đảm ổn định tài chính, tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế, hỗ trợ tăng tỷ lệ việc làm đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững và giảm thiểu đói nghèo trên toàn thế giới. IMF đã hỗ trợ Việt Nam về mặt kỹ thuật liên quan đến chính sách về quản lý thuế, quản lý chi tiêu công và minh bạch tài chính, các chính sách tiền tệ và ngoại hối, tái cấu trúc và giám sát hoạt động ngân hàng, thống kê kinh tế...